KỶ NIỆM 202 NĂM NGÀY SINH CÁC MÁC (5/5/1818 - 5/5/2020)
01/05/2020 07:38
Trong hàng ngũ những vĩ nhân của lịch sử nhân loại, Các Mác (Karl Marx) chiếm một vị trí nổi bật. Ông là nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
KỶ NIỆM 202 NĂM NGÀY SINH CÁC MÁC (5/5/1818 - 5/5/2020)

Trong hàng ngũ những vĩ nhân của lịch sử nhân loại, Các Mác (Karl Marx) chiếm một vị trí nổi bật. Ông là nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Nhân loại mãi mãi khắc ghi những cống hiến to lớn của Các Mác - Người đã cùng Ph. Ăng-ghen (Friedrich Engels) xây dựng nên hệ thống lý luận cách mạng và khoa học, là kim chỉ nam, vũ khí tinh thần sắc bén, soi sáng sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột. Nhân kỷ niệm 202 năm ngày sinh Các Mác, chúng ta cùng tìm hiểu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của ông.

Các Mác sinh ngày 5/5/1818 ở Tơ ri ơ, vùng Rai-nơ, nước Đức. Cha ông là Luật sư Hen rích Mác - một người có nhân cách liêm chính được cả vùng kính trọng. Từ nhỏ, Các Mác đã bộc lộ phẩm chất thông minh vượt trội. Mùa thu năm 1830, lúc 12 tuổi, Các Mác vào học ở trường trung học Tơ ri ơ. Quá trình học tập, Các Mác đã thể hiện là một học sinh thông minh, độc lập, giàu sức sáng tạo. Trong bài luận văn tốt nghiệp trung học, với chủ đề “Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề”, Các Mác đã khiến thầy cô, bạn bè khâm phục và kinh ngạc khi nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Mác viết: "Nếu một người chọn nghề mà người đó có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại thì người đó sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy, không phải một sự vui sướng ích kỷ, hạn chế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người…"

Tốt nghiệp trung học, Các Mác vào học khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Bon; ngoài việc học tập luật, ông còn say mê nghiên cứu triết học, lịch sử, chính trị. Ngày 15/4/1841, khi mới 23 tuổi, Các Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án "Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ (Épicure) tại trường Đại học Tổng hợp Jena.

Tháng 8/1844, Các Mác gặp Ph.Ăng ghen ở Pa ri, nước Pháp. Bắt đầu từ đây, hai lãnh tụ của cách mạng vô sản thế giới đã tìm thấy sự đồng cảm về tư tưởng và lý tưởng cộng sản, đã tạo nên một tình bạn thủy chung, mẫu mực hiếm có. Tháng 2/1848, Các Mác và Ph.Ăng ghen cùng soạn thảo và xuất bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hai ông đã tích cực tham gia các tổ chức cộng sản, tích cực đấu tranh chống xã hội tư sản và tiểu tư sản đàn áp, bóc lột nhân dân lao động; cùng nhau sáng lập ra lý luận về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – chế độ mang lại hòa bình, bình đẳng, hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân lao động.

Về gia đình riêng, tình yêu, tình vợ chồng của Các Mác và Gien ni đã trở thành huyền thoại về tình yêu, tình đồng chí, đức hy sinh, dịu hiền, thủy chung. Các Mác và Gien ni có 3 người con gái và 2 người con trai. Các con của ông bà sau này đều trở thành những nhà hoạt động cách mạng vô sản nhiệt thành.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng trong sự truy đuổi gắt gao của kẻ thù, trong điều kiện sống lưu vong, nghèo khổ đã làm cho sức khỏe của gia đình Các Mác ngày càng suy yếu. Ngày 2/12/1881, Gien ni mất. Ngày 14/3/1883, Các Mác đi vào cõi vĩnh hằng với người vợ yêu quý, khi đang ngồi trên bàn làm việc.

Với trí tuệ vượt trội, tầm nhìn vượt thời đại, sức làm việc phi thường, Các Mác và Ph.Ăng ghen đã để lại những di sản tư tưởng lý luận to lớn, có thể khái quát thành 3 thành tựu lớn nhất sau:

Thứ nhất, Các Mác đã sáng tạo ra triết học duy vật biện chứng, tạo nên một cuộc cách mạng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của tư duy nhân loại, Các Mác đã làm một cuộc cách mạng triệt để trong lĩnh vực triết học, sáng lập ra một nền triết học mới là Triết học duy vật biện chứng bao gồm hai bộ phận chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giúp nhân loại giải thích và cải tạo thế giới. V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Các Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Thứ hai, Các Mác đã tìm ra quy luật giá trị thặng dư - quy luật vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Với việc tìm ra quy luật giá trị thặng dư, Các Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, chỉ ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, vạch trần “bí mật” của xã hội tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của những người lao động làm thuê tạo ra. V.I. Lênin đánh giá: “Lý luận về giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác. Học thuyết vĩ đại này, không chỉ đúng với xã hội tư bản trong thời Các Mác mà còn hoàn toàn đúng với xã hội tư bản hiện đại. Bởi quy luật giá trị thặng dư vẫn là quy luật kinh tế cơ bản luôn luôn tác động vào xã hội tư bản chủ nghĩa ở bất kỳ thời kỳ lịch sử nào”.

Thứ ba, Các Mác đã phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới. Trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên các mối quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản; Các Mác và Ph. Ăng ghen nhận thấy giai cấp công nhân gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến dưới chủ nghĩa tư bản, là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại công nghiệp tôi luyện, tổ chức thành một giai cấp có ý chí cách mạng triệt để, có vai trò và sứ mệnh lịch sử tiến hành cách mạng vô sản tự giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin đánh giá: “Đây là một phát kiến vĩ đại có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Mác”.

Học thuyết của Các Mác – Ph.Ăng ghen đã được V.I Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhờ vận dụng sáng tạo và linh hoạt chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi to lớn mang tầm vóc thời đại: Lật đổ ách thống trị của chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc; thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng CNXH; tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, hòa nhập ngày càng sâu rộng và vững chắc vào cộng đồng thế giới.

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng cao cả của Các Mác đã đi vào lịch sử thế giới như một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời trí tuệ nhân loại, đúng như Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi”. Năm 1999, Trường Đại học Cambridge (Anh) tổ chức bình chọn nhà tư tưởng vĩ đại trong thiên niên kỷ thứ hai, Các Mác đã được bình chọn cho vị trí số một, xếp thứ hai là nhà khoa học Anh-xtanh (A.Einstein). Kết quả đó chính là sự tôn vinh, lòng ngưỡng mộ, kính trọng không chỉ của riêng những người cộng sản, mà của cả loài người dành cho lãnh tụ thiên tài Các Mác.


#Khoa Lý luận chính trị